Các biểu hiện khi trẻ bị còi xương như thế nào?
Còi xương không chỉ ảnh hưởng đến hệ xương mà còn ảnh hưởng đến hệ thần kinh, cơ.
Các dấu hiệu sớm của bệnh còi xương là những biểu hiện ở hệ thần kinh: trẻ hay quấy khóc, ngủ không yên giấc hay giật mình, ra mồ hôi trộm, rụng tóc phía sau đầu. Dần dần xuất hiện các triệu trứng ở xương.
- Ở trẻ nhỏ: xương sọ mềm, đầu dễ bị méo mó, đầu bẹt ở phía sau hoặc một bên do tư thế nằm. Thóp rộng, chậm liền. Răng mọc chậm.
- Ở trẻ lớn hơn: đầu to có bướu, ngực dô phía trước như ngực gà. Xương sườn gồ lên ở phần nối giữa sụn và xương được gọi là chuỗi hạt sườn: các xương chi xuất hiện vòng cổ tay, cổ chân.
- Các cơ nhẽo làm trẻ chậm biết lẫy bò, ngồi, đứng, đi.
Nếu không điều trị kịp thời sẽ để lại di chứng ở hệ xương như: lồng ngực biến dạng, gù vẹo cột sống, chân tay cong, chân vòng kiềng (chữ O) hoặc chân chữ bát (chữ X), khung chậu hẹp.
Các biến dạng của xương làm giảm chiều cao của trẻ, hạn chế chức năng hô hấp, thay đổi dáng đi và ảnh hưởng xấu đến sinh đẻ sau này đối với trẻ gái.
Trẻ chậm mọc răng hoặc chậm biết đi có phải bị còi xương hay không?
Trẻ chậm mọc răng là bị còi xương thì chưa hoàn toàn đúng. Chậm mọc răng chỉ là một trong các biểu hiện của bệnh còi xương. Bình thường trẻ bắt đầu mọc răng sữa vào lúc 6 tháng tuổi. Ở những trẻ bị còi xương, do cơ thể thiếu vitamin D, thiếu canxi một loại chất khoáng cần thiết cho sự phát triển mầm răng nói riêng và cho sự cốt hoá sụn ở đầu các xương dài nói chung nên những trẻ bị còi xương thường chậm mọc răng.
Chậm biết đi là một trong những dấu hiệu ở trẻ bị còi xương. Nhưng ngược lại một trẻ chậm biết đi chưa chắc đã bị còi xương.
Bình thường trẻ em từ 10 đến 12 tháng tuổi đã bắt đầu tập đi, nếu bà mẹ băn khoăn về việc chậm biết đi của con mình thì nên theo dõi xem trẻ có bị bệnh gì không? Đôi khi có những trẻ chậm biết đi hơn những trẻ khác nhưng cũng không mắc bệnh gì.
Tuy nhiên, ở một trẻ chậm mọc răng hoặc chậm biết đi chưa hẳn là bị còi xương thì phải xem xét những yếu tố nguy cơ như: trẻ bị thiếu tháng (dưới 36 tuần thai), trẻ có cân nặng thấp khi sinh (dưới 2500 gam), trẻ không được bú mẹ trong 6 tháng đầu, trẻ nuôi nhân tạo bằng nước cháo, ăn bổ sung quá sớm và những trẻ hay bị viêm đường hô hấp, tiêu chảy kéo dài.
Nên cho trẻ còi xương ăn uống như thế nào?
Còi xương là một bệnh có liên quan đến rối loạn chuyển hoá canxi, phôtpho do cơ thể thiếu vitamin D và thường gặp ở trẻ em đang thời kỳ lớn nhanh. Trẻ béo mập dễ bị còi xương và trẻ suy dinh dưỡng cũng có thể bị còi xương.
Trẻ bị còi xương ngoài việc điều trị vitamin D theo hướng dẫn của thầy thuốc, còn cần chú ý đến chế độ ăn của trẻ.
- Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, không cai sữa trước 12 tháng và cho bú kéo dài đến 18-24 tháng.
- Trẻ từ 6 tháng tuổi thì cho ăn bổ sung với những thức ăn giàu chất dinh dưỡng và giàu canxi, phốtpho như: tôm, cua, câ, sữa, rau muống, rau dền… và ăn thêm dầu, mỡ để tăng cường hấp thu vitamin D.
- Cho trẻ uống thêm nước hoa quả và quả chín.
- Nếu cho trẻ ăn nước ninh xương thì rất ít canxi và khó hấp thu.
Làm thế nào đề phòng được bệnh còi xương?
Muốn phòng được bệnh còi xương, phải phòng bệnh ngay từ khi còn là bào thai, người mẹ phải được ăn uống đầy đủ chất, chú ý tăng cường những thực phẩm có nhiều canxi như: tôm, cua, cá, trứng sữa, đậu đỗ trong suốt thời kỳ mang thai.
Cho trẻ bú sớm ngay trong vòng một giờ đầu sau đẻ để tận dụng sữa non, cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu và kéo dài đến 18 tháng hoặc 24 tháng. Trong sữa mẹ tỷ lệ Ca/P rất thích hợp cho việc hấp thu của trẻ.
Từ tháng thứ 6 cho trẻ ăn bổ sung với những thức ăn giáu chất canxi và cho ăn thêm các loại rau, đặc biệt là thêm dầu mỡ.
Cho trẻ tắm nắng ngay trong tháng đầu sau đẻ vào buổi sáng từ 10 đến 15 phút , chỉ cần để hở hai cẳng chân cho da trẻ tiếp xúc với ánh nắng. Nơi ở của trẻ cần thoáng mát, sạch sẽ, nhiều ánh nắng mặt trời.
Nếu thấy trẻ có nguy cơ còi xương cần hỏi ý kiến thầy thuốc.